Ngày 29-7-2022, Bộ Y tế chính thức ban hành hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh đậu mùa khỉ ở người. Theo đó, cả trường hợp đã xác định và nghi ngờ mắc bệnh đều cần cách ly tại cơ sở y tế.
Trong hướng dẫn này nêu rõ, bệnh đậu mùa khỉ (Monkeypox) là bệnh truyền nhiễm cấp tính, có khả năng gây dịch, do virus đậu mùa khỉ gây ra.
Bệnh có nguồn gốc từ châu Phi, lây truyền từ động vật sang người và từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với tổn thương da, dịch cơ thể, qua quan hệ tình dục, giọt bắn đường hô hấp, vật dụng của người bị nhiễm và lây truyền từ mẹ sang con.
Các triệu chứng chính của bệnh là sốt, phát ban dạng phỏng nước và sưng hạch ngoại vi, có thể gây biến chứng nặng dẫn tới tử vong.
1. Các giai đoạn của bệnh đậu mùa khỉ
Bệnh trải qua 04 giai đoạn:
- Giai đoạn ủ bệnh: từ 6 – 13 ngày (dao động từ 5 – 21 ngày). Người nhiễm không có triệu chứng và không có khả năng lây nhiễm.
- Giai đoạn khởi phát: từ 1 – 5 ngày với các triệu chứng chính là sốt và nổi hạch ngoại vi toàn thân. Kèm theo người bệnh có thể có biểu hiện đau đầu, mệt mỏi, ớn lạnh, đau họng, đau cơ. Virus có thể lây sang người khác từ giai đoạn này.
- Giai đoạn toàn phát: đặc trưng bởi sự xuất hiện của các ban trên da, thường gặp sau sốt từ 1 – 3 ngày, với tính chất sau:
- Vị trí: phát ban có xu hướng ly tâm, gặp nhiều trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân. Ban cũng có thể gặp ở miệng, mắt, cơ quan sinh dục.
- Tiến triển ban: tuần tự từ dát (tổn thương có nền phẳng) đến sẩn (tổn thương cứng hơi nhô cao), sau đó thành mụn nước (tổn thương chứa đầy dịch trong), mụn mủ (tổn thương chứa đầy dịch vàng), đóng vảy khô, bong tróc và có thể để lại sẹo.
- Kích thước tổn thương da: trung bình từ 0,5 – 1cm.
- Số lượng tổn thương da trên một người có thể từ vài nốt cho đến dày đặc. Trường hợp nghiêm trọng các tổn thương có thể liên kết với nhau thành các mảng tổn thương da lớn.
- Giai đoạn hồi phục: Các triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ có thể kéo dài từ 2 đến 4 tuần rồi tự khỏi. Người bệnh hết các triệu chứng lâm sàng, các sẹo trên da có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ và không còn nguy cơ lây nhiễm cho người khác.
2. Các thể lâm sàng của bệnh đậu mùa khỉ
Bệnh đậu mùa khỉ được chia thành 03 thể lâm sàng:
- Thể không triệu chứng: Người nhiễm virus đậu mùa khỉ không có bất kể triệu chứng lâm sàng nào.
- Thể nhẹ: Các triệu chứng thường hết sau 2 đến 4 tuần mà không cần bất kỳ biện pháp điều trị đặc hiệu nào.
- Thể nặng: thường gặp trên nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mang thai, người cao tuổi, trẻ em, người mắc bệnh lý nền, suy giảm miễn dịch…), có thể dẫn tới tử vong, thường từ tuần thứ 2 của bệnh.
3. Chẩn đoán bệnh đậu mùa khỉ
Người bệnh có thể gặp tình trạng nhiễm khuẩn da, với các biểu hiện sốt kéo dài, dịch nốt phỏng đục hoặc nốt phỏng bị vỡ chảy dịch đục. Một số có thể bị viêm phổi (ho, tức ngực, khó thở), viêm não (ý thức suy giảm, co giật, lú lẫn, hôn mê), nhiễm khuẩn huyết (sốt kéo dài, tổn thương các cơ quan phủ tạng).
Theo hướng dẫn, bệnh đậu mùa khỉ được chẩn đoán qua xét nghiệm sinh học phân tử (PCR hoặc tương đương) với các bệnh phẩm dịch hầu họng (giai đoạn khởi phát), dịch nốt phỏng (giai đoạn toàn phát) đối với ca bệnh nghi nhờ để xác định căn nguyên.
Ca bệnh được cho là ca nghi ngờ đậu mùa khỉ là ca có bệnh cảnh lâm sàng nghi bệnh đậu mùa khỉ hoặc là ca có một hoặc nhiều yếu tố dịch tễ sau:
- Trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng, có tiếp xúc với trường hợp bệnh xác định hoặc trường hợp bệnh có thể, thông qua tiếp xúc vật lý trực tiếp với da hoặc tổn thương da (bao gồm cả quan hệ tình dục), hoặc tiếp xúc với các vật dụng bị ô nhiễm như quần áo, giường, đồ cùng cá nhân của người bệnh.
- Có tiền sử đi du lịch đến các quốc gia có lưu hành bệnh đậu mùa khỉ trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng.
- Ca bệnh xác định là trường hợp có kết quả xét nghiệm sinh học phân tử dương tính với virus đậu mùa khỉ. Dựa trên triệu chứng sốt, phát ban và hạch to, cần chẩn đoán phân biệt bệnh đậu mùa khỉ với các bệnh đậu mùa, thủy đậu, herpes lan tỏa và tay chân miệng.
4. Điều trị bệnh đậu mùa khỉ thế nào?
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, các trường hợp nghi ngờ/xác định được cách ly tại cơ sở y tế. Việc điều trị được chia thành 2 thể:
- Thể nhẹ: điều trị triệu chứng là chủ yếu (hạ sốt, giảm đau; chăm sóc tổn thương da, mắt, miệng; đảm bảo dinh dưỡng, cân bằng nước điện giải, theo dõi và phát hiện sớm các biến chứng (nếu có), phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn theo quy định).
- Thể nặng: cần điều trị ở buồng cách ly tại khoa hồi sức, điều trị biến chứng (nếu có) theo phác đồ đã ban hành.
Việc dùng thuốc điều trị đặc hiệu được chỉ định cho người có biến chứng nặng (nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm não…), người bị suy giảm miễn dịch (HIV, ung thư, đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch hoặc corticosteroid liều cao), trẻ em, phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú, những người đang có bệnh cấp tính tiến triển.
Theo hướng dẫn, việc điều trị bệnh sẽ phân tuyến theo thể bệnh.
- Tại y tế xã/phường, quận/huyện: sẽ điều trị ca bệnh không triệu chứng, ca bệnh nhẹ có các triệu chứng thông thường của bệnh.
- Tuyến tỉnh, trung ương: sẽ tiếp nhận ca bệnh nặng hoặc có nguy cơ trở nặng (trẻ sơ sinh, người bị suy giảm miễn dịch, người cao tuổi, bệnh nền, phụ nữ mang thai), ca bệnh có biến chứng nặng.
Các dấu hiệu nguy hiểm của bệnh cần theo dõi, xem xét chuyển tuyến điều trị: giảm thị lực, giảm ý thức, hôn mê, co giật, suy hô hấp, chảy máu, giảm số lượng nước tiểu và các dấu hiệu của nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn.
Người bệnh cách ly tối thiểu 14 ngày hết các triệu chứng về lâm sàng (không xuất hiện tổn thương trên da mới tối thiểu 48 giờ và các tổn thương cũ đã đóng vảy) sẽ được xuất viện.
5. Các biện pháp phòng ngừa chung để tránh lây nhiễm đậu mùa khỉ
- Tránh tiếp xúc với người/động vật có thể bị bệnh ( bao gồm cả động vật bị bệnh hoặc đã chết ở những khu vực xảy ra bệnh đậu mùa ở khỉ).
- Tránh tiếp xúc với vật dụng, bề mặt có nguy cơ nhiễm virus đậu mùa khỉ như khăn trải giường, quần áo người bệnh.
- Cách ly, điều trị người bệnh tại cơ sở y tế.
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và các dung dịch sát khuẩn thông thường sau khi tiếp xúc với người/động vật nghi ngờ nhiễm bệnh.
- Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân khi chăm sóc người bệnh.
- Thực hiện đánh giá nguy cơ phơi nhiễm theo các quy định để có biện pháp xử trí phù hợp.
Nguồn: Tuổi Trẻ Online